THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC TOÀN QUỐC CHỦ ĐỀ “VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VỚI ĐỀ TÀI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG”
Ca khúc cách mạng: những bản
hùng ca một thời kiêu hãnh
NS NGUYỄN QUỐC ĐÔNG
(Chi hội nhạc sĩ Việt Nam tỉnh Tây Ninh)
Trong khoảng chiều dài lịch sử trên 4 thập kỷ âm nhạc Cách mạng (từ 1930 – 1975) kể từ bài hát Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu (1930) ca khúc cách mạng hình thành và phát triển từ khi có phong trào yêu nước do Đảng lãnh đạo là những bản hùng ca ung đúc tinh thần chiến đấu của quân và dân trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Trong thời lượng cho phép tôi chỉ xin nêu một số bài hát tiêu biểu ghi dấu ấn lịch sử trong từng giai đoạn của đất nước. Ca khúc cách mạng được hình thành từ những năm 30 của thế kỷ 20.
Giai đoạn 1930-1946 là giai đoạn đầu tiên của dòng ca khúc cách mạng Việt Nam.
Ca khúc cách mạng thời kỳ
này mang dấu ấn của nền âm nhạc cổ truyền dân tộc, dòng ca khúc hướng về lịch
sử tiêu biểu là
bài Cùng nhau đi Hồng quân của Đinh
Nhu (1930):
“Cùng
nhau đi Hồng binh. Đồng tâm ta đều bước. Đừng cho quân thù thoát. Ta quyết chí
hy sinh. Nào anh em nghèo đâu. Liều thân cho đời sống.Mong thế giới đại đồng.
Tiến lên quân Hồng”.
Đinh Nhu (1910 – 1945) là nhạc sĩ tác giả bài Cùng nhau đi Hồng binh, nhạc phẩm được coi là bài hát đầu tiên của
tân nhạc cách mạng Việt Nam
Đinh Nhu sinh năm 1910 trong một gia đình nghèo sống bằng nghề bán hoa.
Từ khi còn là học sinh tiểu học, trung học ở Hải Phòng, Đinh Nhu đã say mê sân
khấu, âm nhạc. Vì hoàn cảnh gia đình nên ông phải xin thôi học và bắt đầu hoạt
động cách mạng. Năm 1927 Đinh Nhu tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng
chí Hội. Đến cuối 1929 ông bị Pháp bắt và giam tại Hỏa Lò, Hà Nội, sau đó bị
kết án chung thân đày ra Côn Đảo. Thời gian ở trong tù ông dạy hát cho các tù
nhân khác và bài Cùng nhau đi Hồng binh
ra đời thời kỳ đó, năm 1930.Theo Trần Quang Hải, Đinh Nhu viết Cùng nhau đi
Hồng binh trong tù vào năm 1930 để kêu gọi dân chúng nổi lên chống Pháp, dựa
trên thang âm ngũ cung. Nhân sự kiện Nhật đảo chính Pháp đêm 9 tháng 3 năm
1945, những tù nhân trong nhà tù Nghĩa Lộ nổi dậy nhưng bị đàn áp. Một số chết,
Đinh Nhu cùng Nguyễn Văn Bẩy, Vi Phùng...bị đem ra xử bắn. Theo một nguồn khác,
Đinh Nhu bị bắn chết khi bạo động xảy ra giữa tù nhân và lính gác trong cuộc
nổi dậy. Bài hát này lấy cảm hứng từ những cuộc đấu tranh chống Pháp sôi nổi
những năm 1930, đặc biệt là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cùng nhau đi Hồng binh còn được một số nhà nghiên cứu coi là bài
hát đầu tiên của tân nhạc Việt Nam. Ngày nay, tên của nhạc sỹ Đinh Nhu được đặt cho một đường phố ở Hải Phòng.
Hình tượng người chiến sỹ
cách mạng Việt Nam được phản ánh rõ nét nhất trong các ca khúc cách mạng giai
đoạn này. Họ sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho độc lập của Tổ quốc, cho hạnh phúc
của nhân dân. Qua những hình tượng ấy, có thể thấy cách thức lựa chọn thể hành
khúc của những người cộng sản là hoàn toàn đúng đắn. Bởi vì, hành khúc là
phương tiện nghệ thuật hữu hiệu nhất để tuyên truyền cổ động cho cách mạng. Di
sản âm nhạc đồ sộ của giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là
thời gian định hình những bài hát được gọi bằng tân nhạc, mới ra đời trong trào
lưu âm nhạc cải cách chưa đầy một thập niên trước đó. Bài hát Giải
phóng Điện Biên của nhạc sĩ
Đỗ Nhuận từ lâu đã trở thành tượng đài bằng âm thanh, một bản hùng ca bất hủ. Giải phóng Điện Biên được chọn làm nhạc
hiệu chính thức hàng ngày của Đài Tiếng nói Việt Nam. Mùa xuân 1954, nhạc sĩ Đỗ
Nhuận - Trưởng đoàn văn công Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam dẫn
đoàn lên Tây Bắc tham gia "Chiến dịch Trần Đình" (mật danh của chiến
dịch Biện Biên Phủ). Chiến dịch rất quyết liệt, kéo dài nên không được phép tập
trung đông người để xem biểu diễn. Đoàn phải phân tán thành từng tốp từ 3 đến 5
diễn viên xuống tận chiến hào, vào từng hầm cấp cứu thương binh để biểu diễn
phục vụ bộ đội, dân công. Không chỉ là nghệ sĩ, mỗi ca sĩ, nhạc công...đều là
chiến sĩ thực thụ. Từ Trưởng đoàn đến diễn viên đều tham gia làm đường, tải
đạn, lương thực, thực phẩm cho các đơn vị chiến đấu với tinh thần "Tất cả
để chiến thắng".
Cuộc chiến kéo dài tới ngày thứ 50. Sáng hôm ấy, nhạc sĩ Đỗ Nhuận cùng
anh chị em văn công đang san lấp hố bom dọc đường, gặp một cán bộ tuyên huấn
mặt trận tìm đến. Với giọng nói đầy lạc quan, anh nói với nhạc sĩ Đỗ Nhuận như
để mọi người cùng nghe: "Thắng đến
nơi rồi. Đỗ Nhuận phải sáng tác một ca khúc mừng chiến thắng, kẻo không đuổi
kịp cánh lính bộ binh xung kích đó...".Đêm hôm ấy, nhạc sĩ Đỗ Nhuận ôm
cây đàn ghi-ta bập bùng tìm giai điệu, tiết tấu và ca từ và rồi bỗng nhiên anh
nẩy ra ca từ: "Giải phóng Điện Biên,
bộ đội ta tiến quân trở về, giữa mùa hoa nở miền Tây Bắc tưng bừng
vui...". Và, từ ấy hình ảnh và cảnh quan Tây Bắc cứ như một cuốn phim
hiện lên trong ca từ của Đỗ Nhuận: "Bản
mường xưa nương lúa mới trồng, kìa đoàn em bé giữa đồng nắm tay xoè hoa"
(vũ điệu dân gian của đồng bào Thái)...Đây là bài hát ghi dấu chiến công lẫy lừng của quân
giải phóng làm chấn động cả địa cầu buộc Pháp phải đầu hàng và rút quân khỏi
Việt Nam
Ngay từ ngày đầu tiên bài hát “Tiến bước dưới quân kỳ” của Đại tá, nhạc sĩ Doãn Nho được vang lên
trên chiến trường Điện Biên anh dũng, theo lời nhạc sỹ hôm đó, tôi đến đồi A1, hình ảnh
đầu tiên đập vào mắt tôi gây cảm xúc mạnh mẽ đó là hai mộ liệt sĩ vô danh và
chiếc xe tăng gục nòng nằm đó. Mặc dù sau chiến thắng Điện Biên Phủ 4 năm, đó
là thời hòa bình nhưng ở đó hơi thở của chiến tranh vẫn còn nặng nề bởi hàng
ngày vẫn có tiếng mìn nổ. Ngay cả đường đi đến trường của các cháu học sinh mặc
dù đã được dọn sạch nhưng các cháu hiếu động trèo lên cây khị xuống vấp phải
mìn nên vẫn có thương vong. Thế rồi bà con khi dắt trâu bò đi sản xuất thì trâu
bò cũng vấp mìn, khói súng chiến tranh vẫn đậm nét. Bài hát “Tiến bước dưới quân kỳ”
tôi viết năm 1958, ngay trên đỉnh đồi A1 Điện Biên Phủ. Thời gian đó, Đoàn ca
múa Tổng Cục chính trị trở lại chiến trường xưa để phục vụ bà con và các chiến
sĩ. Tôi được giao nhiệm vụ đi tiền trạm để phục vụ cho cuộc biểu diễn đồng thời
sáng tác kịp thời tác phẩm mới cho Đoàn.
Từ đó, tôi mới viết nên đoạn đầu: “Vừng đông đã hửng sáng, núi non xanh ngàn trùng xa. Tổ quốc bao la
hiền hòa tươi thắm bóng cờ vờn bay trên cao muôn trái tim này hòa nhịp cùng
ngàn lời ca trong sóng lúa lấp lánh sao bay trên quân kỳ…” chính là tinh
thần phơi phới của lớp trẻ măng đó trong đội ngũ sáng sáng ra thao trường. Hình ảnh đội ngũ già, trẻ theo bước chân nhau ra thao trường với hai thế
hệ đã gây xúc động mạnh mẽ trong tôi giúp tôi khắc họa một cách khái quát nhất
hình tượng nghệ thuật trong bài hát này. Đó chính là tư tưởng chính trị, là
truyền thống nhân văn với thông điệp sâu sắc là “hết thế hệ này đến thế hệ khác
tiếp bước nhau đi dưới lá quân kỳ” . Cho đến nay bài hát vẫn khảng định sức sống mạnh mẽ. Đặc
biệt, trong mỗi buổi sáng những giai điệu hào sảng bài hát nầy được vang lên trong lễ chào cờ tại Quảng trường Ba Đình trước Lăng Bác Hồ.
Những thập niên đầu thế kỷ 20, khi văn hóa âm nhạc phương Tây ồ ạt vào nước ta bằng
nhiều con đường khác nhau, Văn Cao đã tiếp thu tính khoa học trong cấu trúc của
âm nhạc phương Tây để cho ra đời ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, lúc ông 16 tuổi.
Đây là dấu ấn quan trọng, là động lực để ông bước vào con đường sáng tạo âm
nhạc. Sau Buồn tàn thu là Suối mơ, Bến xuân, Thiên thai, Trương Chi, đã đưa Văn
Cao trở thành một trong nhạc sỹ tên tuổi, có tính tiên phong, khai mở cho dòng
ca khúc trữ tình lãng mạn của âm nhạc Việt Nam đầu thế kỷ 20. Văn Cao cũng ghi dấu ấn với ca khúc Gò Đống Đa, Thăng
Long hành khúc. Chính vì lẽ đó, với tài năng sẵn có, Văn Cao đã trở thành nhạc
sỹ có tên tuổi trong dòng ca khúc cách mạng. Do những yếu tố khách quan tác
động, số lượng ca khúc của Văn Cao không nhiều như một số nhạc sỹ khác, nhưng
hầu như gắn chặt với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc như: Tiến quân
ca, Tiến về Hà Nội, Ngày mùa, Mùa xuân đầu tiên, đặc biệt, có ca khúc đã làm
nên một thể loại độc đáo trong nền thanh nhạc mới Việt Nam, đó là trường ca. Từ
đó ca khúc Sông Lô được gắn liền với tên của thể loại trường ca, nên có tên là Trường ca Sông Lô (1947)
Trường ca Sông
Lô tựa như
bức tranh liên hoàn giàu chất thơ,
vô đầu bài hát là một hình ảnh làng quê Việt Nam êm đềm, đẹp đẽ nhưng vắng vẻ
đượm nét u buồn: “Sông Lô sóng ngàn Việt
Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u, Thu
du bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu. Sông Lô, sóng ngàn
kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tràn thôn trang, Ai qua bến vắng hồng lặng nhìn
màu nước Sông Lô xưa...” Không phải ngẫu nhiên mà nhạc sỹ Phạm Duy (người bạn
thân thiết của Văn Cao), đã nhận xét: “Bài
Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại…Nét nhạc của trường ca rất khỏe, rất tươi sáng. Nhịp điệu vô cùng phong phú với những chuyển đoạn
rất tài tình. Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc...(lúc đó Phạm Duy cũng có một bài Tiếng hát trên
Sông Lô). Nếu ví
chùm nhạc sông Lô như một bông hoa đẹp, rực rỡ nhiều màu sắc, ngọt ngào hương
vị của hiện thực chiến tranh cách mạng, thì Trường ca Sông Lô của Văn Cao là
đài hoa của những cánh hoa, là đường nét quy tụ của những môtíp hoa văn trên
một bức thảm len đẹp.
"Tiến về Hà Nội" là
một sáng tác nổi bật nữa của nhạc sĩ Văn Cao. Bài hát là lời reo vui của ngày
quân giải phóng Việt Nam từ năm cửa ô tiến về tiếp quản Thủ đô. Được sáng tác
vào năm 1949, "Tiến về Hà Nội"
được xem là ca khúc "đặc
biệt" nhất
viết về ngày này, tức là ra đời trước 5 năm trước khi Quân đội Nhân dân Việt
Nam tiếp quản Hà Nội (1954). Với lời ca hào hùng, khí thế
và sôi nổi, ngày nay, bài hát vẫn thường vang lên, nhất là trong những dịp kỷ
niệm Ngày Giải phóng Thủ đô mùng 10 tháng 10, cũng như trở thành một "khúc
ca khải hoàn" của người Hà Nội.
Ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời,
do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam nêu lên mục đích là động viên nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế
quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai ở miền Nam tiến tới xây dựng miền Nam một chế độ
hòa bình trung lập và dân chủ, từng bước sau này thực hiện thống nhất đất nước. Nhằm hoàn chỉnh sự ra đời của mặt trận, ba tác giả gồm Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước là 3
thành viên chủ chốt của nhóm Hoàng Mai Lưu được giao nhiệm vụ khẩn cấp sáng tác
một bài hát chính thức cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN, yêu cầu về nội dung cần thể hiện những điểm sau:
– Bài hát có tính chất Quốc ca (sách lược) này cần
nhắm vào đối tượng không chỉ nhân dân miền Nam mà cho cả nhân dân Nam Trung bộ
và Nam bộ.
– Kêu gọi nhân dân Nam Trung bộ và Nam bộ trực tiếp
đứng lên đấu tranh vũ trang lật đổ chế độ tay sai của đế quốc Mỹ.
– Nêu rõ triển vọng thống nhất đất nước Việt Nam.
– Tên tác giả phải thay đổi để bảo đảm tính độc lập
của chế độ Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Do các yêu cầu chặt chẽ trên về mặt chính trị nên họ đã cùng nhau bàn bạc cân nhắc rất kỹ từng lời, từng ý,
để sáng tác bài hát Giải phóng miền Nam.
Cụ thể, để thể hiện chủ trương mới quan trọng của Đảng và cách mạng lúc này là
phải đấu tranh vũ trang, đã đưa câu kêu gọi nhân dân trực tiếp chiến đấu: “Cầm gươm, ôm súng ta xông tới”.Muốn
thực hiện được chiến lược này phải đoàn kết nhân dân Trung Nam Bắc lại để diệt
đế quốc Mỹ nên đã đưa vào bài hát câu:
“Giải phóng miền
Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước
Diệt đế quốc Mỹ
phá tan bè lũ bán nước”
Theo lời nhạc sĩ Lưu Hữu Phước để minh họa cho đường lối đoàn kết dân tộc Nam Trung
Bắc, chúng tôi đã nêu lên hai địa danh tiêu biểu của hai miền là Cửu Long và
Trường Sơn, vì thế trong bài có câu:
“Đây Cửu Long
hùng tráng
Đây Trường Sơn
vinh quang”
Và để thể
hiện ý chí thống nhất đất nước của toàn dân dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng Sản Việt Nam, trong bài hát có câu:
“Vai sánh vai
chung một bóng cờ”
Điệp khúc của bài hát là kết luận toàn bộ sách lược
mới của Đảng và phản ánh sự tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng bằng câu:
“Vận nước đã đến
rồi bình minh chiếu khắp nơi
Nguyện xây non
nước sáng tươi muôn đời”.
Bài hát Giải
phóng miền Nam từng là nhạc hiệu của đài phát thanh Giải phóng và đã ghi
dấu một thời kỳ đấu tranh gian khổ của quân dân miền Nam cho đến ngày thống nhất đất nước 1975.
Bài hát “Tiến về Sài Gòn” của Huỳnh Minh Siêng - một bút danh khác của nhạc
sỹ nổi tiếng Lưu Hữu Phước gắn với những ca khúc cách mạng được ra đời trước
ngày giải phóng miền Nam. Chính vì tác giả viết “Sài Gòn ơi!
Ta đã về đây” và nhắc lại như là một điệp khúc mà nhiều người cho rằng bài
hát được ra đời trong dịp tổng tiến công mùa xuân năm 1975. Nhưng sự thực không
phải vậy. Hồi còn sống, có lần Lưu Hữu Phước kể: Ngay sau ngày ra đời Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam (20/12/1960), ông đã nghĩ tới trong một ngày không
xa, cuộc cách mạng giải phóng miền Nam sẽ thắng lợi, Sài Gòn sẽ được giải phóng
nên đã thai nghén bài hát về sự kiện này. Nhưng vì bận rộn quá nhiều công việc
nên mãi tới năm 1966 khi phong trào cách mạng phát triển mạnh, nhân dân nổi dậy
chống lại chính quyền Ngụy ở khắp mọi nơi, ông thấy không thể trù trừ việc sáng
tác. Và trong năm này, ông đã hoàn thành.
Sau phải đến mấy
tháng tìm tòi ý tứ, khai thác chất liệu âm nhạc, lựa chọn khúc thức rồi sửa
chữa, tu chỉnh, cuối cùng “Tiến về Sài
Gòn” ra đời. Sợ mình chủ quan, ông hát cho nhiều anh em trong cơ quan nghe
để xin ý kiến của họ. Tất thảy đều tán thưởng, nhanh thuộc và say sưa hát, ông
mới “chốt” bài hát và yên tâm về đứa con tinh thần mới của mình với hy vọng sẽ
có sức sống tốt.
Một năm sau -1967 - trong lần ra Bắc công tác, Lưu Hữu
Phước trao bài hát cho Quang Hưng, là ca sỹ của Đoàn Văn công Quân giải phóng
và đang chuẩn bị cùng một đoàn nghệ thuật Việt Nam sang biểu diễn ở 8 nước
XHCN. Với giọng hát Nam Bộ, lại không phải là ca sỹ, Lưu Hữu Phước hát qua cho
ca sỹ nghe. Quang Hưng nghe một lần đã “cảm” bài hát và tỏ ra rất vui khi được
nhạc sỹ tin tưởng trao gửi tác phẩm nơi mình.
Và đến mùa xuân năm 1975, sáng ngày 30/4/1975, Đài Sài Gòn vẫn ra rả phát các bài hát tiền chiến
nỉ non như Đêm đông, Con thuyền không bến, Giọt mưa thu…Bỗng đến trưa, các bài
hát kia tắt ngấm. Một lúc sau, thay thế là những âm điệu cực kỳ hào hùng, rộn
rã, náo nức: “Ta về quê khi ánh bình minh
đang hé rạng chân trời. Ta về quê khi lũ ngoại xâm hấp hối tơi bời. Trên đường
quê nghe tiếng mẹ ta đang khắc khoải mong chờ. Nào vượt lên mau bước đoàn quân
giải phóng thành đô…” Những câu: “Tiến
về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù” cứ lặp lại nhiều lần, dội vào người nghe
cảm giác vô cùng phấn khích. Sau đó là lời đầu hàng cách mạng vô điều kiện của
viên đại tướng Dương Văn Minh – Tổng thống chính quyền Ngụy.
Bài hát Bác đang cùng chúng cháu
hành quân của Huy Thục thể hiện
niềm tin và quyết tâm của người chiến sĩ quyết biến đau thương thành sức mạnh
trên đường đi chiến đấu thông qua giai điệu, tiết tấu, lời ca của một hành khúc
hùng tráng. Ngày 3/9/1969, một tấm khăn tang lớn nhất trong lịch sử dân tộc đã
choàng lên tất thảy mọi người Việt Nam. Ngày ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vĩnh biệt
chúng ta. Nhớ lại những ngày “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” đó, thơ và nhạc
đã cùng tấu lên những âm hưởng rất buồn để tưởng niệm vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn
kính yêu. Là một nhạc sĩ quân đội, Huy Thục xác định vị
trí người lính của mình trong đội ngũ cách mạng. Và người lính tức là luôn đồng
nghĩa với cầm súng, hành quân. Đội ngũ những người lính cách mạng ngày càng
hùng hậu đặc biệt là ở những ngày cuối cùng của thập kỷ 60 thế kỷ trước đã rất
trùng điệp và đội ngũ ấy sẽ ngày càng được
nhân sức mạnh gấp bội, sẽ nhấn chìm bất cứ kẻ thù nào nếu mỗi chiến sĩ đều hình
dung có Bác trong hàng quân, cùng nhịp bước băng lên phía trước. Đó chính là
tứ, là chủ đề mà Huy Thục đã nảy ra. Ông nhanh chóng hình thành những nét nhạc
đầu tiên không mấy khó khăn:“Đêm nay trên
đường hành quân ra mặt trận. Trùng trùng đoàn quân tiến bước theo con đường cuả
Bác. Nở ngàn hoa chiến công dâng lên Người, dâng lên tới Đảng cả niềm tin chiếu
sáng ngời…”
Việc tác giả nhắc lại:“Năm xưa Bác cùng đàn con đi chiến dịch, núi rừng vẫn nhớ suối vẫn
trong in hình bóng Bác. Cả đoàn quân tiến theo Người như thác đổ. Điện Biên năm
nào vọng lời Bác giữa chiến hào…” đã làm sáng tỏ, đã giải thích được vì sao
người ta gọi các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt nam là Bộ đội Cụ Hồ, bởi Người
là linh hồn cuả quân đội và quân đội chiến đấu theo lý tưởng độc lập tự do yêu
nước thương nòi của Người.
Đêm Trường Sơn nhớ Bác là sáng tác của nhạc sĩ
Trần Chung. Cho đến tận ngày hôm nay, những giai điệu đó vẫn sống mãi
trong lòng nhiều thế hệ công chúng. Có thể nói rằng, chủ đề về
người lính cụ Hồ, về người cha già dân tộc đáng kính luôn được
những người nhạc sĩ nhân dân khai thác hết sức tỉ mỉ, tạo nên những
âm điệu hào hùng đi cùng năm tháng. Ca khúc đêm Trường Sơn nhớ Bác vẫn còn đó, trở
thành một trong những bài hát hay nhất trong chùm ca khúc cách mạng, vẫn vang
vọng mãi trong tâm khảm nhiều thế hệ về sau. Hình bóng Bác vẫn ấm
áp, đôn hậu như thuở nào, vẫn luôn dõi theo non sông gấm vóc:
Đêm Trường Sơn
Chúng cháu nhìn
trăng, nhìn cây
Cảnh về khuya
như vẽ…
Bâng khuâng
chúng cháu nghĩ
Bác như đã đến
nơi này...
Những câu cuối cùng “Con đường của Bác mới đi qua” được đẩy lên nốt cao nhất. Đó
chính là niềm tin mãnh liệt, về hình bóng Bác thực sự ở đây, như
tiếng reo vang, tiếng tuyên thệ hùng hồn của người lính. Nhìn chung,
nghệ thuật xử lý âm nhạc quyện lời ca của nhạc sĩ Trần Chung thực
sự tuyệt vời, hàm xúc và vô cùng ý nghĩa. Nếu như thời chiến, đó
là niềm cảm hứng của người lính ra chiến trường. Thì cho tới tận
ngày nay, những ca từ này đã cho chúng ta biết rằng ông cha đã chiến
đấu, đã đánh đổi, đã mất mát như thế nào để giành lại sự tự tôn,
nền độc lập, tự do cho dân tộc.
Nhà thơ Nguyễn Trung Thu viết bài thơ “Đêm Trường Sơn nhớ Bác” trong một đêm
rất khuya năm 1972 trên đường Trường Sơn. Bồi hồi nằm trong căn hầm ngột ngạt
và không sao ngủ được, không gian ngoài kia vằng vặc ánh trăng chiếu sáng khắp
núi rừng tĩnh lặng. Hình ảnh Bác Hồ, vị Cha già kính yêu của dân tộc và bài thơ
Cảnh khuya được Người viết trong cuộc kháng chiến chống Pháp bất chợt hiện về,
xao động tâm tư, Nguyễn Trung Thu lấy lòng bàn tay mình và ghi trên ấy những
dòng thơ đầu tiên trào dâng tha thiết, để rồi sáng hôm sau thì thi phẩm đã hoàn
thành. Nhạc sĩ Trần Chung đọc được bài thơ in trên báo Nhân Dân, ngay lập tức
những nốt nhạc đầu tiên ra đời, hân hoan và đậm chất tráng ca từ đó đến giờ. Bài thơ hay và xúc động tâm hồn người đọc. Chúng ta đều biết, năm 1972
khi tác giả viết bài thơ này, Bác Hồ đã qua đời ba năm, cả dân tộc Việt Nam
đang bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng cam go và khốc liệt. Thế nhưng,
xuyên suốt toàn bộ thi phẩm, hình ảnh Bác vẫn hiện về sống động qua những vần
thơ tức cảnh sinh tình từ núi rừng Pác Bó năm xưa, đồng thời trong hiện tại,
Người vẫn như đồng hành cổ vũ toàn quân, toàn dân vững bước tiến lên, giành lại
độc lập cho Tổ quốc.
Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, âm nhạc Cách mạng lại âm vang khúc ca
khải hoàn cùng dân tộc, tiếp tục sự nghiệp xây dựng con người mới, xã hội mới.
Âm nhạc không chỉ có những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ mà trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ mới -
xã hội chủ nghĩa; âm nhạc cũng có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tư
tưởng tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ và lối sống của công chúng. Âm nhạc Cách mạng lại
tiếp tục cuộc xung kích trên mặt trận văn hóa, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Những bài ca về Bác, Đảng, về những anh hùng vẫn còn mãi trong lòng người yêu
nhạc.
NHỮNG ĐỀ XUẤT
-
Bản thân tác giả từng là giáo viên dạy âm nhạc
nhiều năm nhận thấy: Những bài hát về lực lượng vũ trang đưa vào sách giáo khoa
rất ít, học sinh chưa nắm hết và hình dung những chiến công hiển hách hào hùng của
Quân đội qua tác phẩm âm nhạc. Nên đưa nhiều ca khúc về bộ đội dạy cho học
sinh, nhất là chương trình âm nhạc địa phương
-
Hiện nay
dòng âm nhạc thị trường đang lấn át dòng nhạc truyền thống, chúng ta nên tăng
cường phổ biến quảng bá nhiều hơn ca khúc cách mạng trong các sự kiện văn hóa,
thể thao, ngày lễ lớn, trên các nền tảng mạng xã hội...cho nhân dân nghe, nhất là các tầng lớp thanh niên, sinh viên học
sinh có điều kiện thưởng thức nhiều hơn ca khúc Cách mạng.
NS NGUYỄN QUỐC ĐÔNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét