Tham luận
DÂN CA TÂY NINH TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN VÀ
HỘI NHẬP
NS Nguyễn Quốc Đông
Chi hội nhạc sĩ VN tỉnh Tây
Ninh
(Hội thảo trong Liên hoan âm nhạc toàn quốc lần thứ nhất tại Tp Long Xuyên ngày 02/6/2023)
Tây Ninh là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Kể từ đầu năm 2014 thị xã Tây Ninh đã được chính phủ công nhận là thành phố Tây Ninh, đây là niềm vui lớn của người dân địa phương.
Chúng ta biết mỗi quốc gia đều mang tính dân tộc trong âm
nhạc và nền âm nhạc đó được phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại
chúng mà mọi nơi đều cảm nhận được vì giai điệu
là dấu hiệu đặc trưng nhất của âm nhạc, là thứ duy nhất vượt mọi không gian thời gian khoảng
cách ngôn ngữ vị trí địa lý và tầng sâu văn hóa...dù người các nước khác không
hiểu được ngôn ngữ diễn đạt trong lời ca nhưng họ vẫn cảm nhận được tiết tấu
giai điệu đặc trưng của từng bài nhạc của mỗi dân tộc.
Thế
nhưng trong ca khúc mang tính dân tộc không phải lúc nào chúng ta cũng bê nguyên
xi các làn điệu dân ca thành bài nhạc mới thì không thể gọi là một bài hát mang
âm hưởng dân ca được, mà đó là dân ca đặt lời mới mà thôi? Hiện nay rất có nhiều bài hát mang âm hưởng dân ca Nam Bộ được phổ biến rộng rãi cho nên có thể các nhạc sĩ
cũng ngại sáng tác theo lối nầy vì sợ trùng lấp, lối mòn, sợ khán giả bội thực?! nhất là có rất nhiều bài hát đã thành công như Dáng đứng Bến tre,
Phải lòng con gái Bến Tre, Áo mới Cà Mau, Mấy nhịp cầu tre, Đàn sáo Hậu Giang,
Chiếc áo bà ba, Bài ca đất phương Nam, Chim trắng mồ côi, Điệu buồn phương Nam...vv Nhưng nếu
chúng ta biết cách đưa vào cho hợp lý nhẹ nhàng thì cũng có thể được, người
nghe chấp nhận ví dụ như bài Chiều về
trên sông của Phạm Duy ông dùng chất liệu Ru con Nam bộ rất khéo trong câu: “Hãy cất tiếng ca cho đời thêm buồn
Hãy cất tiếng ca cho lòng thôi khô héo” (Âm hưởng trong bài Ru con Nam Bộ: “Hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ đi con, Con
hỡi con hời hỡi con”) hoặc như bài Còn chút gì để nhớ (phổ thơ Vũ Hữu Định)
ông chỉ cần sử dụng một bán cung Si - Đô thì ta cũng đã nghe được chất Tây
Nguyên liền: “Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm...” không cần phải mượn nhiều tiết tấu dân ca nhưng rất
hay, rất khéo. Nếu chúng ta quá lạm dụng giai điệu tiết tấu dân ca thì dễ trùng
lặp giống như sáng tác điệu boléro thì không khéo bài nào cũng na ná với nhau,
có nhiều nhạc sĩ đã đi sâu vào giai điệu dân ca như Lý cái mơn, Lý đất giồng,
Lý con sáo thì không còn sáng tạo nữa mà xem như mô phỏng trở thành đơn điệu
(Monotone)
Dân ca miền Tây Nam Bộ người ta đã biết nhiều đến các làn điệu dân ca, điệu
lý, điệu hò nổi tiếng như hò Đồng Tháp, hò Cần Thơ, Ru con Nam bộ, Lý Cái Mơn, Lý con sáo sang sông, Lý ngựa ô, Lý đất giồng, Lý
chiều chiều, Lý cây bông, Lý áo vá quàng...đặc biệt là bài Dạ cổ hoài lang xem
như tiền đề cho bản vọng cổ sau nầy.
Riêng dân ca Tây Ninh cũng mới phát triển sau nầy, chưa phong phú về các điệu thức, chủ yếu là các điệu
lý. Điểm qua dân ca các dân tộc ở Tây
Ninh thì chủ yếu ta thấy cơ bản có ba
nguồn: Dân ca Chăm, dân ca Tà Mun và dân ca Khmer. Dân ca Chăm và Tà Mun, phần
lớn là những bài hát tự sự, thích hợp lối hát một mình, do đó các bài dân ca
cũng dễ bị mai một đi nếu nghệ nhân hát dân ca qua đời mà không có truyền nhân,
người kế thừa.. Dân ca Khmer chủ yếu là song ca nam nữ có tính chất giao
duyên.Và nếu người Chăm, người Tà Mun quen hát không nhạc đệm thì người Khmer
lại thường hát với dàn nhạc đệm, có kết hợp múa. (mỗi năm vào mùng một Tết Nguyên
đán nếu quý vị có dịp ghé qua tòa thánh Cao Đài Tây Ninh thì sẽ thấy những nghệ
nhân dân tộc Khơ mer biểu diễn hát múa, đánh trống Xa Dăm trước đền thánh rất
điêu luyện, loại hình biểu diễn nầy đã được Bộ văn hóa thể thao du lịch công
nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2014)
Chúng ta biết
Lý là những khúc hát bình dân, thịnh hành của dân tộc Việt, thể hiện sâu sát
mọi đề tài, mọi trạng thái tình cảm, ước mơ của quần chúng, mọi hiện tượng
trong cuộc sống , đặc thù của hát lý là hát bắt nhịp, giọng cao giọng thấp, lặp
đi lặp lại...Lý cùng với các làn điệu khác
như hò, cò lả, nam ai, nam bình, hát xoan, hát xẩm, hát ru,... tạo những nét
độc đáo của dân ca Việt Nam. Điệu lý đặc biệt phát triển ở Trung Bộ và Nam Bộ.
Ngoài ra ở Tây Ninh còn có điệu hò Huê Tình, hát ru, vè...Cho đến nay, qua
nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm thì dân ca Tây Ninh hiện còn lưu giữ được
là 419 bài. Trong đó, dân ca tộc Việt: 282 bài, dân ca tộc người thiểu số
(Khmer, Chăm và nhóm người Tà Mun): 137 bài, về lý có khoảng 144 bài. Hầu hết
các điệu lý đều lấy từ nguồn ca dao phong phú
vô tận để hình thành. Ca dao Tây Ninh rất nhiều đề tài quen thuộc như
cảnh vật, tình người, địa danh, những đặc sản tiêu biểu địa phương
Về cách
đặt tên điệu lý Tây Ninh thì thông thường có ba cách đặt tên như sau :
1.Cách
thứ nhất: Đặt tên từ một số từ đầu của câu hát như Lý bìm bịp, lý con sáo, lý
dây bầu, lý cùm nụm, lý cá rô mề, lý bên kia… (lấy những từ đầu tiên câu hát để
đặt vd: Lý cùm nụm: Cùm nụm cùm niệu tay
tý tay tiên đồng tiền chiếc đũa…)
2.Cách
thứ hai: Đặt tên theo tiếng đệm lót hoặc tiếng láy đưa hơi như: lý oa tu hỡi, lý tìm nàng, lý quê chồng…(
vd: bài Lý quê chồng : rồi mới tới cái
quê chồng là tới cái quê chồng của tui…)
3.Cách
thứ ba: Đặt tên theo hành động, động tác hay nội dung câu chuyện mang tính chất
tự sự như các điệu lý: lý kéo đờn, lý con chuột, lý sáng trăng, lý tình, lý đĩa xôi…(như bài Lý sáng trăng: Nhà ai có bán trăng không? Dạ thưa rằng
không có. Bóng vàng chi sáng nở trên thềm? Bóng nguyệt
vàng, bóng nguyệt vàng ới bóng nguyệt vàng…)
Hát
lý được phân biệt với hò vì không gắn liền với một động tác lao động hay giao
duyên. Lý cũng có nhạc tính cố định hơn hò, câu hát đều đặn, trong khi hò có
thể thêm câu dài câu ngắn, tùy người hát. Điệu lý Tây Ninh có tự bao giờ chưa
ai dám khẳng định. Người tứ xứ về Tây Ninh mở đất, dựng quê, và những câu hát
dân ca cũng hình thành giống như bao nhiêu nét văn hoá riêng của mình. Không
ngạc nhiên khi có người nói: trong các làn điệu dân ca của Tây Ninh có cả bóng
dáng của những câu ca của cả ba miền đất nước. Nhưng những năm tháng mở đất người
Tây Ninh cũng có những cách thể hiện nỗi lòng mình qua những làm điệu dân ca
của riêng xứ sở Tây Ninh. Các điệu lý Tây Ninh cũng mới được phát hiện và kí âm
sau nầy không thể so sánh với các điệu lý nổi tiếng ăn sâu vào tâm khảm người
nghe như: Lý cái mơn, lý kéo chài, lý cây đa, lý con sáo, lý mười thương, lý chiều
chiều…nhưng lý Tây Ninh vẫn có những đặc thù riêng. Như đã nói trên, sau nhiều năm sưu tầm và nghiên cứu, các nhà sưu tập
đã tìm được khoảng 144 bài lý nhưng do thời gian hạn hẹp trong tham luận nầy
chúng tôi chỉ đưa ra một vài điệu lý tiêu biểu cho cho quý vị tham khảo
Trường
hợp điển hình là những bài lý liên quan đến địa danh của miền đất Tây Ninh, nên
không thể lẫn vào đâu được. Như bài "Lý quê chồng" Đấy là bài lý kể về quê chồng của cô gái quê
miền đất Ngũ Long ở huyện Bến Cầu. Quê chồng ấy là miền đất các xã phía nam của
huyện Hòa Thành. Ngày nay, trên những bến sông quê ven sông Vàm Cỏ Đông
như Bến Đình. Ta có thể theo một chuyến
đò máy sang sông, để qua Long Giang hay Long Vĩnh thăm lại một tuyến đường
xuồng những cô dâu thời trước đã đi qua. Bài lý có những câu: “ Qua vàm Rạch Gốc/ tới cái hóc Miễu Bà Thủy
Long/ ơ… /Qua luôn đất giồng là giồng cái Ông Quan Cựu/ rồi mới tới cái quê
chồng là tới cái quê chồng của tui.?”
Trong
bản "Lý tìm nàng" cũng nhờ có những địa danh mà có thể khẳng định
ngay, nó sinh ra từ miền nào trên đất Tây Ninh: “ Qua Sân cu, ơ rường ơ/ mới tới miễu ông Tà/ ơ rường ơ/ lên đây rồi
mới gặp/ ơ rường ơ cửa nhà em ở Bàu Năng/ ơ rường ơ phải qua Ninh Hiệp/ ơ rường
ơ mới đặng gặp nàng, ơ rường ơ …”
Đây
lại là tâm trạng của chàng trai trên đường tìm tới quê cô gái mà mình thầm yêu
trộm nhớ. Sân Cu, miễu ông Tà là những địa danh ở Tây Ninh. Bây giờ đường xá
đến Sân Cu đã mở mang tốt đẹp, nhưng những ai ở xứ này đều biết, ngày xưa đây
giống như một ốc đảo hoang vu rừng rậm
có nhiều thú dữ .
Bài
Lý oa tu hỡi nói lên tâm trạng sâu lắng người con nhớ cha mẹ, một hình ảnh gia đình thân thương :
“Mặt mẹ hiền dịu ơ rường ơi oa tu hỡi mà nhớ
quá mắt cha nhăn nhó ờ ơ…”
Tây
Ninh cũng có điệu Lý bìm bịp: tiết tấu chậm như lời than van trách móc ai đó
như là người phụ nữ sang ngang để lại đàn con thơ dại
“Bìm bịp
kêu rõ quá à ôi, dõi sao lấy chồng bỏ trẻ bên sông…thương cho tròn cho con bìm
bịp kêu, thương cho tròn cho con bìm bịp kêu, thương cho tròn cho con bìm bịp
kêu…”
Bài
của Tây Ninh về giai điệu tiết tấu ca từ có khác với điệu lý bìm bịp thông
dụng:
Chiều ra đứng bờ sông nghe bìm bịp kêu,
Sao thương ai nức nỡ trong lòng,
Để con đò chiều vỗ bến tình liêu,
Mà gời đây nước trôi qua cầu,
Em bước theo chồng xa rời tình anh,
Xa mái tranh nghèo xa hàng dừa xanh.
Và
chúng ta hãy nghe một bài Lý ngựa ô của Tây Ninh tiết tấu sôi động, rất vui tươi, dí dỏm:
“Ngựa ô anh không thắng không thắng cái lá
kiệu vàng ruông xã rường ơi…anh đeo khớp bạc lục lạc tòng teng anh giậm búp sen
dây cương dậm thắng tình ông tang tính tính ông tang tình. Đó mà ham vui
đây mà thua con cá bóng kềm nó lội ra khơi …” ( bài nầy có nét biến tấu so điệu Lý ngựa ô thịnh
hành, lại có nét dí dỏm thêm hình tượng con cá bóng kiềm
thay vì bài Lý ngựa ô truyền thống thì hình ảnh con ngựa đủ bộ mã đẹp đẽ khởi
sắc, tâm trạng náo nức để anh đưa nàng về dinh thì đây chỉ là anh chàng cưỡi
ngựa ham vui mà thôi, đó là sự sáng tạo tưởng tượng của giới bình dân mang rõ
nét đặc thù Nam Bộ)
Chúng
ta có thể nghe thêm bài Lý dây bầu với giai điệu khá mượt mà tươi vui mạch lạc…dựa
vào hình tượng dây bầu mà nói đến tình yêu lứa đôi:
“Bầu lên dây bầu mới tượng hình chờ cái
dây tang tình nở nhụy ơi rường ơi...là tang ý a tang tình đôi mà xứng đôi, đôi
mà xứng đôi…”
Bài
Lý bên kia của vùng Trảng Bàng thì mang
tính tự sự với giọng hố khoan nói lên tâm tình người phụ nữ có chồng đi học ở
xứ đô thành là Sài Gòn: “ Ngó qua bên chợ
thì thôi hố khoan Bên nầy chợ ơi Bàng Trảng Bàng, bên nầy chợ ơi Bàng Trảng
Bàng. Chồng tôi đi học thì thôi hố khoan, đi thì đi học ở Gòn Sài Gòn, đi thì
đi học ở Gòn Sài Gòn….”
Bài
Lý cùm nụm như một khúc đồng dao vui tươi, một trò chơi tay tí tay tiên của trẻ
thơ ngày xưa: “ Cùm nụm cùm niệu tay tí
tay tiên đồng tiền chiếc đũa, hột lúa ba
bông í…. ẹ… nè rớt… lượm (nè) Tay tí (ớ) tay cùm nụm tay tí ( ớ) tay cùm
nụm….”.
Và
bài Lý bông đậu giai điệu rất sảng khoái
vui tươi, thể hiện một câu đố bình dân trong sinh hoạt hằng ngày của người dân
lao động :
“Cái cây xanh xanh/ cái lá xanh xanh/ thơm
bông trên nhành/ trái tròn trong đất/ ớ ơ ờ ơ…./ mà bông vàng rực/ nó đậu trên
nhành/ là bậu đố anh,/là bậu đố anh/…..”
(bài nầy vô đầu hơi mang âm hưởng tiết tấu dân ca Nam bộ bài Con chim manh
manh: “ Con chim manh manh/ nó đậu cành
chanh/ tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó chết giẫy/ tôi làm bảy mâm/,tôi đem cho
ông một mâm/,tôi đem cho bà một dĩa/….”
Những
năm vừa qua, Hội VHNT Tây Ninh và Sở VHTT và DL Tây Ninh đã sưu tầm nghiên cứu
về nghệ thuật truyền thống đờn ca tài tử
Nam bộ ở Tây Ninh. Song song đó công trình "Sưu tầm nghiên cứu Dân ca Tây
Ninh" cũng đã xuất bản quyển "Dân ca Tây Ninh" với hơn 300 bài
dân ca và đĩa CD "Giai điệu quê hương" với các làn điệu dân ca Tây
Ninh đặc sắc giới thiệu đến quần chúng nhân dân. Với một vốn dân ca phong phú
như thế chúng tôi rất tự hào là một nguồn tư liệu dồi dào để nhạc sĩ chúng tôi sáng
tác. Ngay
cả trong Liên hoan âm nhạc kỳ nầy chúng tôi đưa vào bài hát Huyền thoại Núi Bà
cũng nhằm mục đích quảng bá về những nét đặc trưng của Tây Ninh là sự tích nàng
Lý Thị Thiên Hương gieo mình xuống vực
sâu để giữ tấm lòng chung thủy, sau nầy do linh ứng nên vua Gia Long đã sắc
phong là Linh Sơn Thánh Mẫu, và xung quanh ngọn núi là có ba dân tộc Chăm, Tà Mun,
Khơ me đang sinh sống và có những làm điệu dân ca rất phong phú. Núi Bà hiện nay là điểm du
lịch rất thu hút ở miền Đông, là một đề
tài nhiều nhạc sĩ khai thác. Thế nhưng
tất cả những hoạt động ấy đều mới chỉ là những bước đi đầu tiên và cần có những
động thái tích cực hơn, cụ thể hơn trong thời gian tới nhằm lưu giữ và phát
triển các loại hình nghệ thuật dân gian. Mặt khác các
nhạc sĩ, các nhà nghiên cứu cần phải hoạt động tích cực hơn
nữa để đưa vốn dân ca Tây Ninh đến với quần chúng bằng những tác phẩm âm nhạc
mang âm hưởng dân ca theo phong cách hiện đại hơn.
Những
năm vừa qua các nhạc sĩ Tây Ninh cũng
đã có nhiều cố gắng trong việc giữ gìn và phát huy vốn dân ca truyền thống đia
phương (bằng cách kí âm lại đi thực tế sưu tầm sáng tác ca khúc mang tính dân
tộc...) nhưng trên thực tế chúng tôi cũng gặp không ít những khó khăn vì điều
kiện kinh phí hạn hẹp đội ngũ nhân sự
rất ít cơ sở vật chất thiếu thốn...do đó sự quảng bá giới thiệu các làn điệu
dân ca các sáng tác địa phương cũng bị hạn chế theo. Nhất là trong cơ chế kinh
tế thị trường hoạt động âm nhạc tại địa phương gặp rất nhiều khó khăn như việc
trình diễn biểu diễn...là điều kiện tối thiểu cho quần chúng thưởng thức tác
phẩm của mình chúng tôi cũng khó thực hiện thường xuyên được, chế độ nhuận bút
cũng chỉ mang tính tượng trưng. Do vậy đầu ra của chúng tôi gặp trở ngại so các
tỉnh thành phố lớn (ngay cả làm một CD nhạc để giới thiệu với công chúng cũng
phải tốn vài chục triệu đồng thì chúng tôi quả khó thực hiện). Hiện nay chúng
ta có lợi thế quảng bá tác phẩm âm nhạc trên nền tảng mạng
xã hội cũng rất hiệu quả như FB, Zalo, youtube...và trên hai website âm nhạc lớn của ngành: đó là trang web của
Hội nhạc sĩ Việt Nam và trang web của Hội âm
nhạc TP HCM. Song song đó các trang
weblogs cá nhân, các website âm nhạc của các nhạc sĩ khá nhiều. Qua đó chúng ta
dễ dàng nắm bắt thông tin và giao lưu học hỏi nhau. Nếu có thể Hội Nhạc sĩ tạo một kênh trên sóng truyền hình để phổ biến các tác phẩm, nhất là các bài
hát đạt giải của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Nhìn chung, hòa trong dòng
chảy dân ca Nam Bộ thì dân ca Tây Ninh về giai điệu, tiết tấu, khúc thức khá đơn giản dễ ca, dễ
hát, lời lẽ bình dân, chân tình và vui tươi, một số bài mang tính chất dí dỏm đó cũng là nét đặc
thù của phong cách Nam Bộ
Phần
nhiều trong các bài dân ca của Tây Ninh đã sưu tầm được trĩu nặng tâm trạng hay
gửi gắm tình yêu đối lứa, tình người trong lao động. Những nét riêng chỉ có thể
nhận ra qua cách sử dụng từ ngữ có lúc còn thô mộc, đôi khi cũng trau chuốt đẹp
lời đầy ý vị. Nhưng tất cả đều là những ngôn ngữ xuất xứ từ một nền lao động
nông nghiệp, chân chất, thiệt thà như củ khoai, hạt lúa quê nhà.
Trước
sự phát triển ào ạt của dòng nhạc thị trường hiện nay và tình hình ngày càng
mất dần đi lớp nghệ nhân lớn tuổi - có nguy cơ làm đứt mạch chảy từ xa xưa của
dòng dân ca dân tộc, việc sưu tầm và lưu giữ, bảo vệ nguồn tài sản tinh thần
quý giá nầy nói chung và dân ca Tây Ninh nói riêng là vấn đề cấp thiết đáng
được quan tâm. Chúng tôi hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ có nhiều bài hát
mang âm hưởng dân ca Tây Ninh lan tỏa đi khắp nơi do các nhạc sĩ sáng tác và tạo nên phong phú cho nền văn hóa dân
gian Nam Bộ.
Cảm ơn quý vị đã lắng nghe
NS
Nguyễn Quốc Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét