Suy nghĩ về ba bài hát "Làng tôi" trong âm
nhạc Việt Nam
Nguyễn Quốc Đông
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam có ba bài hát mang
tên Làng tôi thì đều rất hay, bất tử với thời gian. Kể theo
thứ tự thời gian thì Làng tôi của Văn Cao là có trước nhất,
ông sáng tác vào năm 1947, kế đến Làng tôi của Hồ Bắc sáng
tác năm 1949 và cuối cùng là Làng tôi của Chung Quân được sáng
tác vào năm 1952, như vậy trong 5 năm chúng ta có ba bài hát hay về làng
quê, thật là một sự kiện hiếm có trong làng âm nhạc Việt Nam.
Trước tiên xin nói đến bài hát Làng tôi của nhạc sĩ Văn Cao. Trong một tự truyện, họa sĩ Văn Thao (con trai của nhạc sĩ Văn Cao) đã kể Văn Cao sáng tác Làng tôi dành tặng cho vợ thay quà cưới.
Đầu năm 1947, sau ngày Toàn quốc kháng chiến
(19/12/1946), Văn Cao cùng các văn nghệ sĩ tản cư đi kháng chiến về đóng quản
rải rác tại các thôn xóm thuộc huyện Ứng Hòa - Hà Đông. Trong một lần đi công
tác, con đò chở ông xuôi trên sông Đáy, hai bên bờ sông rợp bóng tre xanh dưới
nắng chiều nhẹ êm. Bỗng một hồi chuông từ nhà thờ ngân lên…, tiếng chuông tỏa
lan trên mặt nước hòa trong tiếng mái chèo khua nước. Tiếng chuông khiến tâm
hồn nhạy cảm của Văn Cao bồi hồi xao xuyến đưa ông về với miền quê thân thương
đầy ắp những kỷ niệm… Từ những cảm xúc đó ông viết:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền, một dòng sông.
Làng quê Việt Nam đang sống trong yên vui, thanh bình
thì bỗng đâu giặc Pháp tràn đến đốt phá, tàn sát người dân lành:
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà
Ngày giặc Pháp tới làng triệt thôn
Đường ngập bao xương máu tơi bời
Đồng không nhà trống tan hoang.
Với lòng căm thù giặc, quân và dân đã dũng cảm chiến
đấu bảo vệ quê hương, tin tưởng mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng:
Ngày diệt quân Pháp tan
Là lúc tiếng chuông ngân
Tiếng chuông nhà thờ rung
Làng tôi cùng đoàn quân chiến thắng
Đánh tan lũ quân thù về làng xưa
Dân tưng bừng chặt tre phá cầu
Cùng lập chiến lũy đào hào sâu
Giặc chưa tan chiến đấu không thôi
Đồng quê chào đón ngày mai.
Bài hát được viết ở nhịp 6/8, điệu valse nhịp nhàng,
sâu lắng, giàu tình cảm, bố cục gọn gàng, chặt chẽ. Nét nhạc chủ đạo phỏng theo
nhịp điệu đung đưa của tiếng chuông nhà thờ. Bài hát gồm có 3 lời, như một câu
chuyện kể có mở đầu, có dẫn dắt tình tiết và có phần kết thúc đầy lạc quan và
tin tưởng vào ngày mai sáng lạng. Từ điệu luân vũ cung đình sang trọng của
châu Âu, Văn Cao đã biến thành một bài hát bình dị, nhẹ nhàng về làng
quê Việt Nam. Có thể nói ông là vua valse thập niên 40 với những bài hát
nổi tiếng như Ngày mùa, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Làng tôi...
Từ những ngày đầu Giải phóng năm 1976 khi lên dạy học
vùng biên giới Tây Ninh tôi đã dạy các em hát bài nầy, các em rất thích thú khi
lần đầu biết đến nhạc Cách mạng. Làng tôi của Văn Cao có sức
sống lâu bền trong đời sống âm nhạc của nhân dân ta. Nhạc sĩ Văn Cao qua đời
vào năm 1996 tại Hà Nội.
Làng tôi của Hồ Bắc ra đời tại chiến khu Việt Bắc, sau bài của Văn
Cao ba năm. Nhạc sĩ Hồ Bắc sinh ngày 8 tháng 10 năm 1930 tại làng Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay là khu phố Phù Lưu, phường Đông Ngàn, thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, 15 tuổi đã là cán bộ
Việt Minh phụ trách Thiếu nhi tuyên truyền cách mạng. Sau đó Hồ Bắc vào bộ đội
và là cán bộ âm nhạc của Văn công sư đoàn 316, Tổng cục Hậu cần. Trong suốt sự
nghiệp sáng tác của mình, ông để lại dấu ấn với nhiều ca khúc nổi tiếng về đề
tài Cách mạng, quê hương như như Làng tôi (1949), Bên
kia sông Đuống (phỏng thơ Hoàng Cầm - 1950), Gặt tay nhanh (1952), Giữ
mãi tuổi xuân (1954), Giữ biển trời Xô viết Nghệ An (1965), Trên
đường Hà Nội (1966) Gửi anh chiến sĩ thông tin đảo (1966), Sài
Gòn quật khởi (1968), Bến cảng quê hương tôi (1970)...
Từ năm 1956, Hồ Bắc chuyển về Đài phát thanh Tiếng nói
Việt Nam làm việc cho đến khi nghỉ hưu năm 1990. Hồ Bắc đã viết một số hợp
xướng như Ca ngợi Tổ quốc, Dáng đứng Việt Nam, Tổ
quốc yêu thương. Ông cũng viết nhạc cho các phim truyện, tài liệu và hoạt
hình. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến Bến cảng quê hương tôi.
Tác phẩm từng được bình chọn là 1 trong 10 bài hát hay nhất về ngành giao thông
vận tải.
Làng tôi của Hồ Bắc viết ở giọng trưởng, nhịp ¾, cấu trúc 3 đoạn.
Vô đầu đoạn nhạc sáng lên với những nốt cao diễn tả một làng quê thanh bình:
Làng tôi sau lũy tre mờ xa
Tình quê yêu thương những nếp nhà
Làng tôi yên ấm bao ngày qua Những chiều đàn em vui
hòa ca
Làng tôi bát ngát cánh đồng mỗi khi thu sang nắng vàng
bông lúa chín
Làng mạc vui sống êm đềm,
Người nông dân hăng hái tăng gia cho đời no
Đoạn hai (b) tác giả khéo dùng các dấu lặng đen để
diễn tả sự bất ngờ, thảng thốt khi quân giặc tràn về cày xới quê hương hoang
tàn:
Nhưng ngày nào quân cướp tràn qua đốt phá tan hoang
quê nhà tôi xơ xác
Có những người chiến sĩ xa quê hương súng bên mình
cùng tiến bước lên đường.
và đoạn ba (c) tác giả hạ cao độ xuống nét nhạc trầm
lắng thể hiện hình ảnh bộ đội chiếm đồn giặc trong đêm khuya:
Thường các bài hát điệu valse lente (chậm) với cấu
trúc âm hình các nốt trắng, nốt đen rất dễ tạo sự đơn điệu (monotone), nhưng Hồ
Bắc đã biến hóa nhịp điệu rất tự nhiên sinh động, khéo sử dụng các cung bậc,
các quãng lên xuống, nhất là đoạn cuối vừa hào hùng vừa lãng mạn: “Có những
nàng ra đứng bên kia sông, đón quân về giải phóng quê mình”.
Ông được trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất
(1997) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. Ông mất ngày
8/02/2021 tại Hà Nội hưởng thọ 92 tuổi.
Làng tôi của Chung Quân đã có tuổi đời qua 70 năm, ít người được
biết là khi sáng tác lúc đó tác giả mới có 16 tuổi. Nhạc sĩ Chung Quân
tên thật là Nguyễn Đức Tiến, sinh năm 1936. Năm 1952, Công ty điện ảnh,
tuồng cải lương Kim Chung ở Hà Nội tổ chức dự thi tìm bài hát cho bản nhạc nền
bộ phim Kiếp hoa. Làng tôi của Chung Quân đã được
giải. Từ đó bài hát được mọi người yêu thích và lan tỏa đi khắp nơi.
Bài hát viết với nhịp 4/4, Moderato Espressivo (biểu
cảm). Vô đầu đã hiện lên một làng quê Việt Nam rất quen thuộc thanh bình:
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ màng.
Giai điệu gần gũi với dân ca khi tác giả khéo dùng các
nốt luyến rất tinh tế:
Đoạn kết tác giả dùng các biến âm bất thường, sử dụng
rất “đắt” những quãng nghịch (2 trưởng, 2 thứ, 7 thứ...), tạo cảm giác lâng
lâng cho hình ảnh làng quê với nét duyên dáng thiếu nữ che nghiêng nón
lá:
Chung Quân không phải là nhạc sĩ chuyên nghiệp, cả đời
ông làm nghề dạy học. Sau năm 1954, Chung Quân theo gia đình vào cư trú ở Sài
Gòn, dạy nhạc ở các trường Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Học trò của ông có những
người về sau cũng trở thành nhạc sĩ nổi tiếng như Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An,
Nam Lộc… Sau khi du học có bằng tiến sĩ văn chương ở Anh, ông về nước dạy văn
và ở Huế cho đến ngày qua đời (năm 1988).
Trong ba bài, theo tôi Làng tôi của
Chung Quân đậm chất Việt Nam hơn.
Cả ba bài hát đều thể hiện sự tinh tế về nghệ thuật.
Cho đến nay đã qua bảy thập kỷ, ba bài hát vẫn có sức hút mạnh mẽ, vẫn được dàn
dựng và yêu thích như ngày nào, xứng danh là những tác phẩm âm nhạc bất hủ
trong làng nhạc Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét